{{today.type}} {{today.low}}độ:-{{today.high}}độ: 1 Đồng Tiền Việt(VND) = {{exchange.vtc}}Nhân Dân Tệ(CNY)

Nội dung bài viết 文章内容

信息中心建设内容(防城港篇)

Giới thiệu về thành phố Phòng Thành Cảng

Ngày đăng:2017-12-06 10:28:12   

1.    Tình hình chung

        Phòng Thành Cảng là một thành phố (địa cấp thị) thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc.
Phòng Thành Cảng có lịch sử lâu dài. Thời Minh lập ra tuần ti Phòng Thành, đến đời Thanh đổi thành huyện Phòng Thành. Ngày 1 tháng 5 năm 1958 thiết lập "Huyện tự trị các dân tộc Đông Hưng" trực thuộc tỉnh Quảng Đông. Tới năm 1965 chuyển giao cho Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây quản lý. Từ 25 tháng 12 năm 1978 tới 23 tháng 5 năm 1993 gọi là "Huyện tự trị các dân tộc Phòng Thành". Sau ngày 23 tháng 5 năm 1993 thì Huyện tự trị các dân tộc Phòng Thành bị triệt tiêu, thiết lập địa cấp thị gọi là "Phòng Thành Cảng thị", vẫn do Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây quản lý.

Vị trí địa lý
Phòng Thành Cảng là một địa cấp thị ven biển phía nam thuộc tỉnh Quảng Tây, kinh độ 107°28′E~ 108°36′E, vĩ độ 20°36′N~ 22°22′N, giáp biên giới với tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam) ở phía tây nam, huyện Ninh Minh (địa cấp thị Sùng Tả) ở phía tây, địa cấp thị Khâm Châu ở phía đông, huyện Phù Tuy (địa cấp thị Sùng Tả) ở phía bắc, quận Ung Ninh (địa cấp thị Nam Ninh) ở phía đông bắc. Phía nam là vịnh Bắc Bộ.
 

Dân tộc và dân số
Phòng Thành Cảng có 2 quận (thị hạt khu), 1 huyện, 1 huyện cấp thị (thị xã), trong đó có 19 hương, 13 trấn, 283 thôn và 19 nhai đạo.
•   Các quận nội thị (thị hạt khu):
•                     Cảng Khẩu (港口). Diện tích 370 km², 100.000 người (năm 2002)
•                     Phòng Thành (防城). Diện tích 2.445 km², 370.000 người (năm 2002)
•   Huyện cấp thị:
•                     Đông Hưng (东兴). Diện tích 540,7 km², 110.000 người (năm 2007)
•   Huyện:
•                     Thượng Tư (上思). Diện tích 2.816 km², 210.000 người (năm 2002)
Thành phố Phòng Thành Cảng quản lý khu Cảng Khẩu, khu Phòng Thành, huyện Thượng Tư, thành Phố Đông Hưng. Diện tích của địa cấp thị này là 6.181 km², , trong đó 158.66km² là các khu dân cư đô thị. Diên tích vùng biển gần 10000 km². Phòng Thành Cảng có dân số tổng cộng gần 1 triệu người. Dân cư bao gồm: người Hán 390.286 người chiếm 54,36%; người Choang 287.207 người chiếm 40%; người Dao 26.749 người chiếm 3,73%; người Kinh 12.288 người chiếm 1,71%, còn lại 0,2% thuộc các dân tộc thiểu số khác, tổng cộng cú 21 dân tộc. Mật độ dân số 116 người trên 1 km² và tốc độ tăng dân số 7,75%/năm.
 
 

Khí hậu môi trường
Phòng Thành Cảng thuộc khu khí hậu gió mùa nóng ẩm á nhiệt đới, chiếu sáng bình quân hàng năm đạt 1500 tiếng, lượng mưa khoảng hơn 2400 mi-li mét, nhiệt độ khoảng 22℃, khí hậu dễ chịu. Cả thành phố có 3 khu bảo vệ tự nhiên cấp quốc gia, diện tích khu bảo vệ tự nhiên 710.72 héc-ta, diện tích xanh hoá công viên 498.22 héc-ta, tỷ lệ che phủ màu xanh chiếm 30.4%, diện tích xanh hoá công viên bình quân đầu người 13.56m2.
 
Sản vật tài nguyên
Phòng Thành Cảng giàu tài nguyên hải dương, thuỷ điện, khoáng sản,v.v, có nguồn tài nguyên khá đa dạng và phong phú, có ý nghĩa chiến lược và là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Tài nguyên bến tàu. Phòng Thành Cảng giàu tài nguyên bến tàu, có hơn 20 bến cảng tự nhiên.
Tài nguyên hải dương. Phòng Thành Cảng có hơn 500 loại cá và hơn 200 loại tôm, còn có nhiều hải sản khác. Hải sản xuất khẩu các nước trên thế giới.
Tài nguyên rừng cây. Phòng Thành Cảng có hơn 1500 loại cây, có hơn 300 loài phụ phẩm nông nghiệp. Nổi tiếng nhất là cây thông, cây sam và nhục quế, cây hồi và trà Kim Hoa v.v.
Tài nguyên thuỷ điện. Có 5 sông lớn là sông Bắc Luân, sông Phòng Thành, sông Mao Lĩnh, sông Giang Bình, sông La Phù, nó đều bắt nguồn từ Nam Lộc núi Thập Vạn, mức nước chênh lệnh của lòng sông so với mặt biển lớn, dòng nước chảy xiết, có tiềm năng nguồn nước vô cùng phong phú. Điện lực dồi dào, là căn cứ nguồn năng lượng quan trọng quốc gia.
Tài nguyên khoáng sản. Có tài nguyên phong phú như Man-gan, ti-tan, thiếc. kẽm v.v. Số lượng dự trữ khoáng sản cầm cờ đi trước trong toàn quốc.

 


2.    Kinh tế dân sinh
Những năm gần đây, sự phát triển kinh tế của Phòng Thành Cảng hết sức nhanh chóng. Năm 2016, GDP của Phòng Thành Cảng đạt 67.612 tỷ tệ, tăng trưởng 9.1% so với cùng kỳ, GDP bình quân đầu người 73197 tệ, là GDP bình quân đầu người cao nhất của Quảng Tây. Chỉ số chất lượng không khí đứng đầu toàn quốc, khả năng quản lý địa phương đứng đầu Quảng Tây.

Tài chính và thu nhập thuế. Năm 2016, thu nhập thuế từ tài chính đạt 7.561 tệ, tăng trưởng 7.0% so với cùng kỳ. Trong đó,  thu nhập từ thuế 5.465 tệ, tăng trưởng 8.1% so với cùng kỳ. Thu nhập ngoài thuế 2.096 tệ, tăng trưởng 4.5% so với cùng kỳ. Thu nhập dự toán tài chính công cộng 5.565 tệ, tăng trưởng 6.9%.

Thu nhập cư dân. Năm 2016, thu nhập bình quân đầu người cư dân thành phố và thị trấn 29758 tệ, tăng trưởng 7.9%, hu nhập bình quân đầu người cư dân nông thôn 12113 tệ, tăng trưởng 10.2%, tỷ lệ thất nghiệp thành phố và thị trấn 2.7%.

Nông nghiệp. Diện tích gieo hạt cây nông nghiệp 125.35 nghìn héc-ta, tăng trưởng 2.21 nghìn héc-ta so với cùng kỳ. Tổng sản lượng loài thịt 47.1 nghìn tấn, hạ xuống 0.7% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng hải sản 511.1 nghìn tấn, tăng trưởng 4.4%. Diện tích trồng rừng 8567 héc-ta, giảm bớt 2340 héc-ta so với cùng kỳ, hạ xuống 21.5%.
 

Công nghiệp và ngành kiến trúc. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp 152.247 tỷ tệ, tăng trưởng 14.2% so với cùng kỳ. Thực hiện giá trị gia tăng công nghiệp 34.088 tỷ tệ, tăng trưởng 12.2% so với cùng kỳ. Giá trị gia tang của ngành kiến trúc 4.538 tỷ tệ, tăng trưởng 7.2%. Tổng giá trị sản lượng của ngành kiến trúc 11.11 tỷ tệ, tăng trưởng 32.0%.
 
Đầu tư tài sản cố định. Đầu tư tài sản cố định 60.014 tỷ tệ, tăng trưởng 14.1%, cao 1.3% so với Quảng Tây, cao 6% so với toàn quốc.
 
Mậu dịch trong nước. Tổng kim ngạch bán lẻ hàng tiêu dùng xã hội đạt 11.189 tỷ tệ, thực tế tăng trưởng 8.9%, kim ngạch bán lẻ hàng tiêu dùng thành phố và thị trấn đạt 10.062 tỷ tệ, tăng trưởng 10.8%, kim ngạch bán lẻ hàng tiêu dùng nông thôn đạt 1.127 tỷ tệ, tăng trưởng 10.6%.
 
Mậu dịch đối ngoại và chiêu thương thu hút đầu tư. Tổng kim ngạch xuất ngập khẩu hàng hoá 57.891 tỷ tệ, tăng trưởng 8.5%. Quy mô xuất ngập khẩu mậu dịch đối ngoại đứng thứ hai khu tự trị. Mậu dịch tiểu ngạch biên giới 8.527 tỷ tệ, hạ xuống 30.7%.
 

Giao thông, bưu điên và du lịch. Gía trị gia tăng của giao thông vận tải, chứa trong kho và ngành bưu chính thực hiện 5.287 tỷ tệ, tăng trưởng 3.1%. Lượng quay vòng vận chuyển hàng hoá đường bộ và đường thuỷ  29.465 tỷ tấn ki-lô-mét, tăng trưởng 2.4%.
Tổng kim ngạch nghiệp vụ bưu điện đạt 2.332 tỷ tệ, tăng trưởng 46.7%. Người sử dụng điện thoại cố định có 123.1 nghìn hộ.
Cả năm tổng cộng tiếp đãi du khách trong nước và ngoài nước 15.8565 triệu lượt người, tăng trưởng 16.4%. Thu nhập du lịch đạt 12.923 tỷ tệ, tăng trưởng 28.4%.
 
Tài chính và bảo hiểm. Có 71 các loại cơ quan tài chính, giá trị gia tăng ngành tài chính 2.488 tỷ tệ, tăng trưởng 10.5%. Thu nhập từ bảo hiểm của công ty bảo hiểm  924 triệu tệ, tăng trưởng 21.4%.



3. Xã hội phát triển

Giáo dục khoa học kỹ thuật. Năm 2016, tốc độ tăng trưởng của bản quyền phát minh sáng chế đứng đầu Quảng Tây. Tổ chức thực thi 53 dự án khoa học kỹ thuật, đầu tư 879 triệu tệ, kinh phí khoa học kỹ thuật 980 triệu tệ. Nhập 32 giống mới nông nghiệp, nghiên cứu khai thác 24 sản phẩm mới, phát triển 24 kỹ thuật nông nghiệp và công nghiệp mới.  

Trường giáo dục cao đẳng phổ thông chiêu sinh 1846 người, có 3620 học sinh đang học ở trường. Các trường giáo dục trung cấp chiêu sinh 3193 người, có 8602 học sinh đang học ở trường, và có 558 người đã tốt nghiệp. Các trường cấp ba phổ thông chiêu sinh 5660 người, 16078 học sinh đang học ở trường, 4719 người đã tốt nghiệp. Các trường trung học sơ cấp chiêu sinh 13366 người,  37675 học sinh đang học ở trường, 12707 người đã tốt nghiệp. Các trường tiểu học chiêu sinh 17235 người, 92926 học sinh đang học ở trường, 14076 người đã tốt nghiệp. Vườn trẻ có thiếu nhi 41335 người.
 
Văn hoá, vệ sinh và thể dục thể thao. Cả thành phố có 13 rạp và rạp chiếu phim, 5 quán văn hoá, 3 bảo tàng, 317 điểm bảo vệ văn vật, 4 thư viện công cộng, lưu trữ 320.17 nghìn quyển sách, 4 đài truyền lại.

Cả thành phố có 643 cơ quan y tế. Trong đó, có 7 bệnh viện, 28 viện vệ sinh, 4 viện bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, 5 cơ quan dự phòng khống chế bệnh tật. Có nhân viên kỹ thuật vệ sinh 5593 người, có giường bệnh 3928 chiếc.

Vận động viên cả năm giành được 140 huy chương, trong đó có 50 huy chương vàng, 49 huy chương bạc, 41 huy chương đồng. Có  trọng tài đẳng cấp 31 người, có vận động viên 18 người.
 
H thng đảm bo xã hi. Hệ thống dịch vụ vệ sinh thành phố và nông thôn không ngừng phát triển, trong toàn khu dẫn đầu triển khai “một thể” hợp tác nông thôn, bảo hiểm bệnh tật cư dân thành phố và nông thôn, hợp tác nông thôn mới lập tức thanh toán v.v. Đảm bảo dân sinh thành phố và nông thôn thực hiện che phủ hoàn toàn.
 

4.  Thành phố quan trọng “Một vành đai, một con đường”

Ven biển ven biên. Thành phố Phòng Thành cảng là thành phố duy nhất sông núi liền với ASEAN của Trung Quốc, có đường ven biển lục địa 584 km, đường biên giới lục địa 230 km, có ưu thế khu vực nổi bật, kết nối với vòng kinh tế Đại Tây Nam, vòng kinh tế vùng châu thổ sông Châu mở rộng, vòng kinh tế ASEAN.
 
Ưu thế ven biển. Thành phố Phòng Thành cảng tiếp giáp với Vịnh Bắc Bộ, ưu thế “Một biển liền với bảy nước” cực kỳ nổi bật, có tiền cảnh rộng rãi phát triển sản nghiệp ưu thế như xây dựng cảng đầu mối quốc tế mang tính khu vực, phát triển công nghiệp lớn gần bến cảng và ngành lưu thông phân phối hiện đại.
 
Bến cảng lớn ra biển. Thành phố Phòng Thành cảng là một trong những bến cảng quan trọng của Trung Quốc, hiện nay có 33 nơi cập bến cấp trên 10 nghìn tấn, có giao lưu đi lại với 170 khu vực và quốc gia, 250 bến cảng thông taù tuyến, chiếm 60% tổng lượng nhập vào và xuất ra bến cảng Quảng Tây.

Thông đạo lớn đi ra nước ngoài. Thành phố Phòng Thành Cảng có 5 cửa khẩu cấp quốc gia, trong đó, cửa khẩu Đông Hưng là cửa khẩu có du khách thông quan nhều nhất. Từ Phòng Thành Cảng đến vịnh Hạ Long mất 3 tiếng, đến Hà Nội mất 5 tiếng.
 

 
5. Bến cảng sinh thái phong cảnh biển

Địa hình và địa mao của thành phố Phòng Thành Cảng độc đáo, sinh thái môi trường tốt lành, cho nên, Phòng Thành Cảng là một thành phố đẹp đẽ “Thành phố trong biển, biển trong thành phố”.
 
“Ba đảo ba vịnh” thiên nhiên đẹp. “Ba đảo ba vịnh”, là bán đảo Giang Sơn, đảo Ngư, bán đảo Xí Sa và vịnh Chân Châu, vịnh Tây Hải, vịnh Đông Hải. Ở đây gần núi liền sông, đường biển ngoắt ngoéo, vịnh, sông, hồ, đảo, đồi núi trọn vẹn một khối, tuyệt đẹp vô cùng.
 
Non xanh nước biếc sinh thái đẹp. Có 60% rừng cây che phủ thành phố, là thành phố lâm viên Quảng Tây. Nguồn nước của nước uống 100% đạt tiêu chuẩn.
 
Quê hương cò trắng Trung Quốc. Trong thành phố có 12 loại cò trắng, khoảng có 300 nghìn con, là một trong những nơi có cò trắng dừng lại của Trung Quốc.
 
Quê hương trà Kim Hoa Trung Quốc. Trà Kim Hoa là sinh vật quy báu 170 triệu năm trước. Thành phố Phòng Thành Cảng là khu bảo vệ tự nhiên trà Kim Hoa duy nhất thế giới.

Quê hương trường thọ Trung Quốc. Ở thành phố Phòng Thành Cảng, tuổi thọ bình quân của mỗi người là 75.8 tuổi, cao hơn toàn quốc 2 tuổi. Thành phố Đông Hưng hiên nay có cụ già trên 90 tuổi 491 người, trên 100 tuổi có 18 người, là thành phố trương thọ ven biển đầu tiên của Trung Quốc.
 
Thành phố khí ô-xy Trung Quốc. Thành phố Phòng Thành Càng trời nước một màu, non xanh nước biếc, không khí tốt lành, là “Thành phố khí ô-xy Trung Quốc” nổi tiếng.

Quê hương nhục quế, cây hồi Trung Quốc. Cả thành phố có rừng nhục quế, cây hồi hơn 120 mẫu, sản lượng cả năm gần 20 nghìn tấn, là một trong ba căn cứ sản xuất chất thơm Trung Quốc.